Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và căn cước công dân
Sau một năm triển khai thần tốc với quyết tâm chính trị cao của cơ quan chủ trì là Bộ Công an, đến đầu năm 2022, CSDL quốc gia về dân cư đã được làm sạch, chuẩn hóa và sẵn sàng cho việc kết nối, chia sẻ của hơn 90 triệu người dân (92% dân số cả nước); dự án sản xuất, cấp CCCD đã cấp cho hơn 50 triệu thẻ.
Hiện
nay, cả nước có khoảng 5.400 thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý
của các bộ, ngành, địa phương. Trong đó, việc quản lý dân cư do nhiều
bộ, ngành, địa phương cùng thực hiện và đa phần bằng phương thức thủ
công, truyền thống phục vụ quản lý nhà nước, chỉ đạo, điều hành và cung
cấp dịch vụ công. Để phục vụ quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công,
các cơ quan quản lý nhà nước đều cấp cho công dân một loại giấy tờ nhất
định, nên mỗi công dân có thể sở hữu nhiều loại giấy tờ với những
thông tin và loại số liệu khác nhau (giấy khai sinh, giấy đăng ký kết
hôn, sổ hộ khẩu, thẻ bảo hiểm y tế, chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu,
sổ bảo hiểm xã hội, giấy phép lái xe, các loại thẻ…). Việc xây dựng, đưa
vào khai thác Cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dân cư, Căn cước công
dân (CCCD) gắn chíp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hình thành
các công dân số, tạo lập nền tảng cho chính phủ số, kinh tế số, xã hội
số.
Sau một năm triển khai thần tốc với quyết tâm chính trị cao của cơ quan chủ trì là Bộ Công an, đến đầu năm 2022, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã được làm sạch, chuẩn hóa và sẵn sàng cho việc kết nối, chia sẻ của hơn 90 triệu người dân (92% dân số cả nước); dự án sản xuất, số lượng thẻ CCCD đã cấp là hơn 50 triệu thẻ.
Vấn đề cần được giải quyết
Hiện nay, việc di cư, dịch cư diễn biến phức tạp, tình trạng đô thị hóa, cùng với sự phát triển của nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp lớn đã, đang và sẽ nên sự biến động rất lớn về dân cư, như: công dân phải thường xuyên phải thay đổi nơi ở; công dân đăng ký cư trú một nơi những sống ở một nơi khác; công dân đi khỏi nơi cứ trú, nhưng không khai báo tạm trú, tạm vắng… Với diễn biến này, việc tiếp tục quản lý dân cư theo hình thức thủ công dựa trên giấy sẽ dẫn đến công tác quản lý dân cư không theo kịp nhu cầu thực tế, đồng thời khiến người dân phải chịu rất nhiều áp lực khi thực hiện thủ tục hành chính, sử dụng dịch vụ công. Khi chưa có cơ sở dữ liệu (CSDL) quốc gia về dân cư được kết nối và chia sẻ, CCCD gắn chíp, người dân, doanh nghiệp rất bất tiện khi phải thực hiện cung cấp thông tin nhiều lần, thủ công; cán bộ xử lý phải nhập hồ sơ trên nhiều phần mềm; dữ liệu về người dân thiếu nhất quán trong các hệ thống của cơ quan nhà nước; dữ liệu không được cập nhật, tổng hợp kịp thời, chính xác phục vụ chỉ đạo điều hành hiệu quả. Đây là vấn đề dai dẳng mà các cơ quan nhà nước, người dân, doanh nghiệp phải chịu đựng trong nhiều năm qua.
Việc xây dựng, đưa vào khai thác CSDL quốc gia về dân cư, CCCD gắn chíp có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc hình thành các công dân số, tạo lập nền tảng cho chính phủ số, kinh tế số, xã hội số. Việc này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý về con người của ngành công an, mà còn giúp người dân không phải kê khai, cung cấp thông tin thủ công nhiều lần, giúp nâng cao hiệu quả quản lý, chỉ đạo điều hành của các cấp trên toàn quốc dựa trên dữ liệu số đầy đủ, thống nhất, chính xác, kịp thời.
Quyết tâm của người Lãnh đạo
Hai dự án đều do Bộ Công an chủ trì, liên quan đến thông tin người dân, bắt đầu triển khai từ năm 2010, nhưng gần như không được tiến triển đáng chú ý. Quá trình chuẩn bị triển khai hai dự án kéo dài đã làm ảnh hưởng đến quy mô, phạm vi, kinh phí, công nghệ thực hiện. Dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã 04 lần thực hiện điều chỉnh dự án. Đây được đánh giá là hai dự án ứng dụng công nghệ thông tin quy mô lớn nhất Việt Nam từ trước đến nay, chưa có tiền lệ, với yêu cầu sử dụng công nghệ hiện đại và phải triển khai thật nhanh nếu không rất dễ bị lạc hậu, đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở, bảo mật cao, kế thừa tối đa nhằm tránh lãng phí. Năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt hai dự án: Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Sản xuất, cấp và quản lý căn cước công dân đã đánh dấu cột mốc quan trọng khi hai dự án bắt đầu chuyển sang giai đoạn triển khai; đồng thời mở ra một giai đoạn mới với nhiều khó khăn, thách thức chưa lường trước được, chưa có tiền lệ.
Ngay từ khi bước vào thực hiện, Bộ Công an đã nhận thức và đánh giá đầy đủ tầm quan trọng, tính cấp bách của hai dự án cũng như những thuận lợi, khó khăn, thách thức đặt ra. Nhận thức đầy đủ những vấn đề nêu trên, ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hai dự án về xây dựng CSDL quốc gia về dân cư và Sản xuất, cấp và quản lý CCCD, Bộ Công an đã khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện, trong đó xác định việc xây dựng hai dự án là trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chính trị, vừa là mệnh lệnh công tác và cũng là danh dự của lực lượng công an nhân dân. Bộ Công an đã thành lập Ban chỉ đạo để triển khai dự án do đồng chí Bộ trưởng làm Trưởng ban, 03 đồng chí Thứ trưởng làm Phó Trưởng ban và các cục nghiệp vụ liên quan tham gia; tại công an 63 địa phương cũng đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện do đồng chí giám đốc công an tỉnh, thành phố làm Trưởng ban và các phòng nghiệp vụ liên quan tham gia; đồng thời, Bộ Công an xác định việc thực hiện hai dự án là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, là chiến dịch của toàn lực lượng và tập trung chỉ đạo thực hiện rất quyết liệt với kế hoạch cụ thể kèm theo các mốc thời gian hoàn thành tính theo ngày (trong đó xác định 48 nhiệm vụ lớn, chia thành 8 nhóm để thực hiện dự án xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; 55 nhiệm vụ lớn, chia thành 9 nhóm để thực hiện dự án Căn cước công dân); với phương châm chỉ đạo xuyên suốt là "phải bảo đảm hiện đại, đồng bộ, bảo mật cao, tránh lãng phí"; đồng thời, với tinh thần "vừa chạy vừa xếp hàng", vượt lên chính mình để phấn đấu đạt mục tiêu cơ bản hoàn thành một dự án trước ngày 01/07/2021.
Vai trò của Đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an - Trưởng Ban chỉ đạo trong triển khai hai dự án thể hiện qua các con số biết nói: (1) Việc chuẩn bị hai dự án kéo dài gần 10 năm và hơn 470 ngày triển khai thần tốc (từ 11/03/2020 đến 31/06/2021); (2) Ban Chỉ đạo đã họp 16 phiên toàn thể để cho ý kiến chỉ đạo những nội dung có khó khăn, vướng mắc và định hướng những nhiệm vụ lớn của hai dự án; (3) Tổ chức 12 hội nghị trực tuyến với công an các địa phương; (4) Thường trực Ban Chỉ đạo đã tổ chức 12 hội nghị với các cụm, địa bàn (Đông Bắc, miền Trung Tây Nguyên, Tây Nam Bộ) và địa phương trọng điểm; (5) 67 cuộc họp giao ban hàng tuần để kiểm điểm công việc của hai dự án; (6) Trong giai đoạn khó khăn về biên chế, Bộ Công an đã bố trí Công an xã chính quy tại 100% xã, thị trấn với gần 45.000 cán bộ, chiến sĩ (bảo đảm trung bình mỗi xã 05 đồng chí có thế đáp ứng yêu cầu thu thập, cập nhật, bổ sung thông tin dân cư hàng ngày ngay từ địa bàn cơ sở).
Giải pháp công nghệ nổi bật nhất được sử dụng trong triển khai hai dự án là công nghệ sản xuất thẻ CCCD gắn chíp. Đây được coi là thẻ CCCD tiên tiến, hiện đại bậc nhất trên thế giới với nhiều tính năng; bảo đảm các tiêu chuẩn quốc tế; thiết kế bảo đảm thẩm mỹ, bền, đẹp... mở ra cơ hội mới trong việc ứng dụng phát triển các dịch vụ bảo đảm an ninh, an toàn, cải cách hành chính phục vụ người dân và doanh nghiệp. Hơn 164.000 thiết bị của hai dự án (Như hệ thống máy chủ, máy trạm, thiết bị mạng, bảo mật...) đều được kiểm soát chính hãng ngay từ nguồn gốc, bảo đảm xuất xứ từ các nước Mỹ, G7, EU, ASEAN và được kiểm tra kỹ lưỡng, bảo đảm an ninh an toàn trước khi đưa vào sử dụng.
Thành quả đạt được
Với sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự chỉ đạo sát sao của Ban chỉ đạo triển khai hai dự án, đặc biệt là của đồng chí Bộ trưởng Bộ Công an, hiện tại, CSDL quốc gia về dân cư đã được làm sạch, chuẩn hóa và sẵn sàng cho việc kết nối, chia sẻ của hơn 90 triệu người dân (92% dân số cả nước); dự án sản xuất, cấp CCCD đã cấp cho hơn 50 triệu thẻ.
Việc này giúp cắt giảm chi phí, tạo thuận tiện cho người dân, doanh nghiệp, tổ chức trong giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công (Chi phí cắt giảm từ đơn giản hóa thủ tục hành chính trên cơ sở ứng dụng CSDL quốc gia về dân cư, thẻ CCCD gắn chíp; chi phí di chuyển và chi phí thực thiện chứng thực giấy tờ liên quan đến công dân; chi phí cắt giảm thời gian chuẩn bị tờ khai, tiết kiệm được từ việc giảm nhập trường thông tin, chi phí của công chức xử lý khi xử lý thủ công trên bản giấy khi thực hiện thủ tục hành chính, sử dụng dịch vụ công ước tính hàng nghìn tỷ đồng/năm).
Bài học về nhận thức đúng đắn
Nhận thức và xác định đúng tầm quan trọng, tính cấp bách của 02 dự án, từ đó xác lập cơ chế chỉ huy, chỉ đạo tương xứng từ Trung ương đến cơ sở; dự báo đúng tình hình, lường trước những khó khăn, thách thức và nguy cơ; trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch cụ thể, chi tiết ngay từ khi bắt đầu thực hiện hai dự án, đồng thời quyết tâm thực hiện đúng thời gian từng công việc để tạo cơ sở cho việc hoàn thành các công việc tiếp theo.
Bài học về chính sách
Từ việc nhận thức đúng tầm quan trọng, tính phức tạp, liên ngành của hai dự án, Bộ Công an đã triển khai một cách bài bản, tạo lập căn cứ pháp lý rõ ràng đối với việc triển khai hai dự án. Cụ thể Bộ Công an đã phối hợp với các bộ, ngành tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành Luật Căn cước công dân, Nghị định số 137/2015 ngày 31/12/2015 của Chính phủ quy định một số điều và biện pháp thi hành của Luật căn cước công dân, Nghị định số 37/2021/NĐ-CP ngày 29/03/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 137/2015/NĐ-CP, Nghị định số 90/2010/NĐ-CP ngày 18/08/2010 của Chính phủ quy định về cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Bài học về sự quyết liệt, sát sao
Sự quyết liệt, sát sao, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hai dự án xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở. Điển hình là công tác chỉ đạo quyết liệt của Ban Chỉ đạo, đứng đầu là đồng chí Đại tướng, Bộ trưởng Tô Lâm. Trong đó, xác định nguyên tắc nhất quán, xuyên suốt, cụ thể hoá bằng những quy định, quy trình, quy chế tổ chức thực hiện thống nhất, gắn với kiểm tra, đôn đốc quyết liệt từ cơ sở. Do đó, các khó khăn vướng mắc phát sinh đều được giải quyết hiêụ quả trong thời gian nhanh nhất, góp phần hoàn thành hai dự án đúng tiến độ.
Bài học về giải pháp công nghệ
Khai thác, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong hai dự án và chuyển đổi tư duy trong thực hiện các mặt công tác từ thủ công sang ứng dụng công nghệ, đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Bài học về truyền thông
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến trong toàn quân, trên nhiều phương tiện, thể hiện nhiều cách thức nhằm tạo nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng, tính cấp bách, ý nghĩa của hai dự án đến người dân, cơ quan, tổ chức cũng như toàn quân. Từ nhận thức đúng, đầy đủ sẽ có biện pháp đúng, sáng tạo kết hợp với quyết liệt, trách nhiệm sẽ đạt hiệu quả cao.